Tôi muốn viết về anh bằng những lời nồng nhiệt. Không phải chỉ là để mừng anh, người vừa được phong tặng một tước vị cao quý: Viện sĩ Viện Hàn lâm Nghệ thuật của nước Cộng hoà dân chủ Đức, một viện Hàn lâm nổi tiếng với những tên tuổi Đức và những tên tuổi lừng danh trên thế giới: L.Aragông, F. Nêruđa, íLAmađô, R.Anbécti, C.Ximônốp, M.Sôlôkhốp, và nhiều người khác.
Tôi muốn viết về anh bằng ngôn ngữ của trái tim, không phải chỉ vì trong lòng rưng rưng một niềm quý trọng và khâm phục, mà còn vì một lẽ rất giản dị: Suốt nửa thế kỷ qua, hầu như ngày nào Xuân Diệu cũng viết, đến nay đã mấy nghìn trang sách, thế mà hầu như không có một dòng nào thờ ở, không có một dòng nào lãnh đạm. Xuân Diệu không khi nào nói để mà nói, viết để mà viết. Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay nghiệt, lúc tỉnh táo, lúc mê say, luôn luôn đập một trái tim trung thực, luôn luôn hỏi hộp một nỗi niềm khám phá. Tất cả sự lốn lao của Xuân Diệu bắt đầu từ cái lẽ giản dị sâu sắc ấy.
Tôi muôn bao quát anh dầu không thể như bao quát một bộ phim dài, Chặng đường anh đã qua là một chặng đường mà trên đất nước và trên hành tinh này đã xảy ra bao biến cố lớn lao. Năm anh sinh ra (1917) trùng với năm có tiếng nấc hạnh phúc của thế kỷ, năm Cách mạng Tháng Mưòi Nga thành công. Dầu cho, phải nhiều nhiều năm sau đó Xuân Diệu mới lớn lên, rời tiếng sóng biển gần nhà cha mẹ ở Quy Nhởn, đêm trăng thành Huế, chiều tà Hở Tây, rời còn yêu, còn buởn, còn thưởng, dầu thế đi nữa thì bão táp cách mạng vẫn cứ đến như một quy luật không thể cưỡng được. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lãng mạn sớm nhất biểu lộ niềm reo vui trưốc Ngọn Quốc Kỳ, trước Hội nghị non sông. Và từ ấy, anh không chỉ là nhà thơ của tình yêu mà thực sự trở thành một người hoạt động xã hội tích cực phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Anh được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I (1946 – 1960). Anh làm báo, làm xuất bản, làm cán bộ tuyên truyền, làm công tác đào tạo nhà văn. Anh là một trong những hạt nhân tích cực tham gia việc chuẩn bị và thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Anh viết báo, viết sách, với nhiều thể loại và đến với các vùng đất từ miền núi cao Tây Bắc, Việt Bắc đên chót mũi Cà Mau, làm thơ, đọc thơ và diễn thuyết trưốc công chúng.